Những tháng Tư buồn
Đã hơn hai tháng ngày ngưng bắn
Ta bỏ quân trường rời Nha Trang
Vác súng Cạc Bin về Hửu Phước
Xa lìa Tấn Lộc cũng Phan Rang
Sáng sớm vô làng đi công tác
Gái Chàm làm rẩy đứng bên đường
Ta súng trên vai đều nhịp bước
Ngở như thao diển Vũ đình Trường
Đêm về chui vô hội đồng xã
Ta cứ giăng mùng ngủ mê man
Không ai canh gác không ai thức
Hên xui du kích mới về làng
Tháng Tư Bảy Tư ra đơn vị
Chi đoàn chuyển quân về Khiêm Hanh
Bò Cạp, Chà Rầy ta dẩm nát
Cơm sấy cá khô kiếp quân hành
An ninh quốc lộ tuần bảy bửa
Ta về Củ Chi qua Hố Bò
Trưởng Xa đưa máy Anh Pha gọi
Chắc hành quân nửa có gì lo
Một đêm tối trời vào Đức Huệ
Đẩy công trường 5 qua đất Miên
Ta rút quân về Gò Dầu Thượng
Thấy gái Việt mình tưởng gặp tiên
Đầu tháng Tư đen về Truông Mít
Phá chốt bên ven rừng cao su
a có Biệt Động Quân tùng thiết
Chết sống bên nhau dưới đạn thù
Đến giữa tháng Tư về Xuân Lộc
Hết xăng thiếu đạn với cả người
Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm
Ta gượng trên môi một nụ cười
Gần cuối tháng Tư ra Bà Rịa
Ta không đi phép đợi ngày mai
Ai ngở gần như là vĩnh biệt
Bốn mươi lăm năm giấc mộng dài
Lê Chiến 2/15 TK (Thiết Kỵ).
Đã hơn hai tháng ngày ngưng bắn
Ta bỏ quân trường rời Nha Trang
Vác súng Cạc Bin về Hửu Phước
Xa lìa Tấn Lộc cũng Phan Rang
Sáng sớm vô làng đi công tác
Gái Chàm làm rẩy đứng bên đường
Ta súng trên vai đều nhịp bước
Ngở như thao diển Vũ đình Trường
Đêm về chui vô hội đồng xã
Ta cứ giăng mùng ngủ mê man
Không ai canh gác không ai thức
Hên xui du kích mới về làng
Tháng Tư Bảy Tư ra đơn vị
Chi đoàn chuyển quân về Khiêm Hanh
Bò Cạp, Chà Rầy ta dẩm nát
Cơm sấy cá khô kiếp quân hành
An ninh quốc lộ tuần bảy bửa
Ta về Củ Chi qua Hố Bò
Trưởng Xa đưa máy Anh Pha gọi
Chắc hành quân nửa có gì lo
Một đêm tối trời vào Đức Huệ
Đẩy công trường 5 qua đất Miên
Ta rút quân về Gò Dầu Thượng
Thấy gái Việt mình tưởng gặp tiên
Đầu tháng Tư đen về Truông Mít
Phá chốt bên ven rừng cao su
a có Biệt Động Quân tùng thiết
Chết sống bên nhau dưới đạn thù
Đến giữa tháng Tư về Xuân Lộc
Hết xăng thiếu đạn với cả người
Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm
Ta gượng trên môi một nụ cười
Gần cuối tháng Tư ra Bà Rịa
Ta không đi phép đợi ngày mai
Ai ngở gần như là vĩnh biệt
Bốn mươi lăm năm giấc mộng dài
Lê Chiến 2/15 TK (Thiết Kỵ).
***************
Một thuở học trò Tôi
là con lớn trong một gia đình có 8 anh em, 6 trai, 2 gái, lúc nhỏ
tôi rất khù khờ, ăn uống thì chậm chạp như con gái theo lời kể của
mẹ tôi, bà lo lắng nhiều nhất là vấn đề nầy, vì lo sợ khi tôi đi
lính người ta dành ăn hết chắc tôi nhịn đói, mẹ tôi thức khuya dậy sớm, tảo tần buôn bán, dành dụm tiền mua rất nhiều ruộng đất ở vùng
Đại Lộc, Quảng Nam, mơ ước của mẹ tôi là mai sau hòa bình tôi về
quê làm ruộng, cưới một cô vợ dưới quê buôn bán hàng ngày ngoài chợ
và sinh cho bà vài đứa cháu nội, đó là ước mơ đơn giản của mẹ tôi
khi tôi còn học Tiểu Học dưới quê, tôi hay theo chú Mười con út của
ông bà nội ra sông Vu Gia tắm, nhìn chú lấy dây bông giấy quấn trên
vai tưởng tượng là dây biểu chương của lính Nhảy Dù, đứng trên bờ la
Nhảy Dù cố gắng thật lớn rồi nhảy ùm xuống sông, tôi muốn làm
lính Nhảy Dù, tôi cũng la hét như chú Mười nhưng không dám nhảy
xuống sông vì không biết bơi sợ chầu Hà Bá, lo cho ông bà nội mất
thằng cháu đích tôn. Năm 1964 tôi ra Đà Nẵng với gia đình, mẹ và
các em tôi dọn về thành phố nầy để tránh nạn CS, khi cuộc chiến lan
rộng đến vùng quê hiền lành, nhỏ bé của tôi trước đó, ba tôi đi
lính ngoài Huế cả năm mới về một lần, mẹ tôi bịnh hoạn triền miên
nên bà để tôi chỉ huy mấy đứa em trai, trước khi tôi vào lính mùa hè
năm 72 thì quân số tôi chỉ huy trong nhà đã lên hơn nữa tiểu đội 5 trai, 2 gái. Năm 1965 quân đội Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng nên CS pháo kích
thường xuyên vào phi trường, vùng nhà tôi ở nằm ngoài hàng rào phi
trường ĐN, nên lâu lâu cũng được lảnh vài trái hỏa tiển rơi ngoài
vòng đai, ba tôi cho gia đình làm hầm trú ẩn trước sân bằng bao cát
và gổ từ những kết đựng đạn 105 ly, do ba tôi mang về theo các chuyến
xe lảnh đồ tiếp tế của đơn vị, mỗi đêm nghe còi báo động, tôi đánh
thức các em và dẩn vô hầm tránh pháo, kinh nghiệm làm cấp chỉ huy của
tôi lúc ấy chỉ có chừng đó mà thôi. Năm 1970 tôi đi học thêm ban đêm
để chuẩn bị thi Tú Tài, nhờ vậy tôi cũng gặp được vài cô học trò
dể thương học lớp đêm, tuy nhiên tôi không hội đủ điều kiện để lọt
vào mắt xanh của họ, thằng bạn thân cùng xóm thấy tôi cô đơn cũng
tội, nó bảo tôi mầy thiếu sắc thì phải có tại hay có tài mấy em
mới thích, ba tôi là lính nghèo và đông con, mẹ tôi bịnh hoạn lấy
tiền đâu cho tôi phung phí với mấy em nử sinh ngày đó, nó nói thiếu
tại thì chỉ cần có chút tài tán gái là được, tôi thì khù khờ, nhút nhát, mỗi lần muốn mở lời với ai thì trống ngực đánh liên
hồi muốn xỉu làm sao bây giờ, thằng bạn quân sư quạt mo bảo tôi tập
làm thơ, rồi kẹp vô tập vở đưa cho em nào học lớp đêm mà tôi trồng
cây si. Nó cho tôi mượn cuốn Giảng Văn Trung Học đệ nhị cấp có chỉ
dẩn cách gieo vần thơ Đường, thơ lục bát, thơ tứ tuỵệt, ngũ tuyệt
loạn xà ngầu…, tôi viết được bài nào thì nhờ nó khi đi mua báo cho
má nó đánh số đề, bỏ vô hộp thư tòa soạn cho tôi, tuần nào nó lấy
báo về tôi cũng hỏi nó có thơ tôi đăng chưa, nó bảo có hỏi thằng coi
mục thơ của tờ báo Trường Sơn, thì bài tôi không thể đăng trong mục
thơ tình vì nặng mùi sến và cải lương Dạ Lý Hương, nếu tôi chịu
chuyển qua mục thơ đánh số đề có nhiều hy vọng, tôi thấy thất vọng
cho cái tài thiên phú của mình trong lảnh vực thơ tình yêu, nên bỏ
nghề viết lách dù đã tập tành nghề làm thơ suốt ba tháng dài,
trong đau khổ của trái tim. Đầu năm 1972 thằng bạn tôi giới thiệu cho
tôi thằng đàn em của nó, thằng nầy tên Đức đang tập tành làm thơ, viết văn nó là hội viên của thi văn đoàn Lạc Hồng, nhóm nó có một
chủ tịch, một thư ký và vài hội viên, nhóm cần thêm người viết
bài thật ra cần thêm người đóng tiền để hội hoạt động, gởi bài
vào các nhật báo ở Sài Gòn vì địa bàn hoạt động ở Đà Nẵng nhỏ
hẹp và hạn chế, nó mời tôi tham dự buổi họp mặt hàng tuần vào
thứ bảy, tại quán nước cô Yến cạnh trường Nữ trung học Hồng Đức.
Buổi họp mặt đầu tiên chẳng có gì hứng thú, anh hội trưởng bảo tôi
muốn gia nhập thì đóng tiền cho cô Liên thư ký, nhà cô ở gần đó trên
đường về nhà tôi, mấy hôm sau tôi rảnh ghé nhà cô Liên để nói chuyện
gia nhập hội, cô ra tiếp tôi mặc bộ đồ bà ba màu tím, không biết vì
cô dể thương hay tôi yêu màu tím hoa sim của nhà thơ Nguyễn hửu Loan,
nên tôi đóng tiền gia nhập vô hội liền mà không hỏi han gì hết, tôi
cũng ngại ngùng không dám hỏi xem các tác phẩm của cô, cô có bút hiệu
Băng Hoài Thụy Liên mà tôi nhìn cô không có gì băng giá, chỉ rực ánh
lữa hồng trong trái tim nhỏ bé của tôi, tôi không biết thơ cô thể
loại nào, hay dở, chỉ thấy ánh mắt, nụ cười của cô làm ngây ngất
hồn tôi. Từ đó tôi siêng năng đi họp, viết bài thường xuyên cho cô gởi, lâu lâu cô vui vẻ báo tin tôi có bài thơ đăng báo nầy, báo kia, cô
cắt trong báo ra cho tôi, lúc nầy cô chủ quán nước tên Yến hay trò
chuyện với tôi mỗi lần gặp gở, cổ muốn tôi làm thơ tặng cổ, tôi
cố gắng viết mấy bài bỏ vô tập vở của cô khi đi họp ở quán nước
của cô, có lần ai đó lấy trứng thằn lằn bỏ lên tập vở của cô, tôi
lượm trứng lên rồi bỏ thơ vào tập vở như thường lệ, cô Yến thấy nên
hỏi tôi cho cô ấy coi cái trứng, cổ xòe bàn tay cho tôi bỏ vào, tôi
nắm bàn tay cô rồi bỏ cái trứng vào mà nghe lòng rung động và con
tim xao xuyến, không biết sợ rớt bể trứng, hay lần đầu tiên được nắm bàn
tay đẹp dịu dàng của cô chủ quán tuổi mười lăm, cái tuổi chưa đến
độ tròn trăng mà thuyền tôi cũng đã ước mơ chở trăng về từ hôm ấy.
Từ đó có lẻ định mệnh đã thay đổi cuộc đời tôi, tôi không còn gặp
cô Liên mặc áo bà ba tím, tím cả chiều hoang trong mắt tôi mỗi lần
ghé đưa bài đăng báo cho cô, tôi chỉ biết đứng trước cổng trường
Hồng Đức mỗi chiều tan học, đợi cô Yến về để nhìn tà áo trắng cô
thướt tha bay theo cơn gió từ sông Hàn thổi về, đôi lần tôi muốn ngỏ
đôi lời nhưng không dám vì nhút nhát trước một bầy con gái, lo sợ cô
mắc cở vì quen biết một nhà thơ lảng mạn vô sắc, vô tài như tôi. Tôi
chọn cho mình bút hiệu Thiên Chương, cô Yến hỏi bút hiệu tôi có
nghỉa gì, tôi nói Thiên Chương là văn chương của trời cho, không dám
nói ngược lại hai chữ nầy cô ấy sẻ tưởng tôi cần một chút tình yêu
nhỏ bé của cổ, tôi mê thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Quang Dũng và mơ ước
một ngày nào đó thơ tôi sẻ mọc lên như nấm, lan tràn hết các tờ
báo ở Sài Gòn cho đến cả miền Trung, miền đất khô cằn sỏi đá và
cái lạnh khe khắt của mùa Đông , tôi hay bị dị ứng khi mưa và lạnh,
ít khi ra ngoài vì sợ người ta thấy, bạn tôi và thằng Đức gọi tôi
là Hàn Mặc Tử, tụi nó nói ít ra nhà thơ họ Hàn còn có Mộng Cầm
còn tôi Cầm Kỳ Thi Tửu chẳng cầm được cái chi. Mùa hè năm đó tôi
trình diện Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngũ theo lệnh Tổng Động Viên, tôi
đến từ giả cô Yến lòng đau như muối xát trong hồn, có lẻ vì linh
cảm đời lính ngắn ngủi sẻ không còn gặp lại nhau, hay vì lời đòi
hỏi của cô mỗi tuần một lần thư, không ngắn hơn 4 trang giấy trắng,
tôi chép lại hàng trăm bài thơ tôi viết cho cô vào một cuốn nhật ký,
rồi mang theo tôi suốt những ngày làm lính ở trường Hạ Sĩ Quan Đồng
Đế, Nha Trang.
************
Chuyện tháng Tư
Giữa tháng Tư đen về Xuân Lộc
Xe đã thiếu xăng, đạn vài thùng
Thầy trò cả đám mười hai đứa
Bạc áo chinh nhân giống kẻ khùng
Quốc lộ Hai Mươi nằm hướng Bắc
Chịu pháo từng cơn, đá cũng tan
Từng đợt xung phong bao người chết
Sanh Bắc, tử Nam một lũ gàn
Gần cuối tháng Tư ra Bà Riạ
Quốc lộ Mười Lăm đón Nhảy Dù
Vào phố Phước Tuy trời sụp tối
Quờ quạng trong đêm như người mù
Hai ngày tử chiến trong vô vọng
Chống lại pháo thù lẩn chiến xa
Thiết Giáp, Nhảy Dù không phi pháo
Thiếu ăn, mất ngũ lính xa nhà
Sáng sớm di quân ra Bến Đá
Tàn quân chưa biết về nơi đâu
Pháo địch theo chân không ngừng nghỉ
Cả đám giờ như rắn mất đầu
Một đêm tối trời thuyền ra biển
Ba Mươi tháng Tư đến Gò Công
Quân lệnh đầu hàng vô điều kiện
Gảy súng không đền nợ núi sông
Giữa tháng Tư đen về Xuân Lộc
Xe đã thiếu xăng, đạn vài thùng
Thầy trò cả đám mười hai đứa
Bạc áo chinh nhân giống kẻ khùng
Quốc lộ Hai Mươi nằm hướng Bắc
Chịu pháo từng cơn, đá cũng tan
Từng đợt xung phong bao người chết
Sanh Bắc, tử Nam một lũ gàn
Gần cuối tháng Tư ra Bà Riạ
Quốc lộ Mười Lăm đón Nhảy Dù
Vào phố Phước Tuy trời sụp tối
Quờ quạng trong đêm như người mù
Hai ngày tử chiến trong vô vọng
Chống lại pháo thù lẩn chiến xa
Thiết Giáp, Nhảy Dù không phi pháo
Thiếu ăn, mất ngũ lính xa nhà
Sáng sớm di quân ra Bến Đá
Tàn quân chưa biết về nơi đâu
Pháo địch theo chân không ngừng nghỉ
Cả đám giờ như rắn mất đầu
Một đêm tối trời thuyền ra biển
Ba Mươi tháng Tư đến Gò Công
Quân lệnh đầu hàng vô điều kiện
Gảy súng không đền nợ núi sông
Lê Chiến khóa 8/72 SQTB ĐĐ
No comments:
Post a Comment